Khởi nguyên của việc uống cà phê khá là mờ mịt, với rất ít bằng chứng để khẳng định. Có một số bằng chứng cho thấy rằng từ xa xưa ở Ethiopia người ta đã ăn quả của cây cà phê, cuốn với mỡ động vật như một món ăn vặt tăng sự hưng phấn, tuy nhiên, chúng ta thiếu một mảnh ghép quan trọng: chúng ta không biết ai đã quyết định lấy hạt ra khỏi quả, rang và nghiên nó thành bột, ngâm thứ bột ấy vào nước nóng và uống hỗn hợp đó. Đây là một bước nhảy vọt lạ lùng, và là một bí ẩn mà có lẽ không bao giờ tìm được lời giải đáp.
Có chứng cứ về việc người ta uống cà phê vào cuối thế kỷ 15, nhưng không đủ để khẳng định cho giai thoại rằng quán cà phê đầu tiên là Kiva Han, được mở năm 1475 ở Constantinople. Nếu nó đúng, thì cà phê hẳn là đã được trồng ở Yemen, và chúng ta biết rằng nó đã lan ra khắp cả khu vực. Cà phê nhanh chóng trở nên gắn liền với các tư tưởng chính trị và tôn giáo, và các quán cà phê đã bị cấm ở Mecca năm 1511 và Cairo năm 1532. Trong cả hai trường hợp, nhu cầu của người sử dụng đã giành phần thắng, và các lệnh cấm nói trên đã sớm bị gỡ bỏ.
“Quán cà phê đầu tiên được mở ở châu Âu vào khoảng giữa những năm 1600, và cà phê nhanh chóng thay thế bia và rượu vang trở thành thức uống bổ dưỡng cho bữa sáng. Ở Tân thế giới sự việc phổ biến cà phê tăng nhanh sau vụ việc tiệc trà Boston năm 1773, khi uống cà phê trở thành một hành vi yêu nước.”
CÀ PHÊ VƯƠN ĐẾN CHÂU ÂU VÀ XA HƠN NỮA
Trước những năm 1600 thói quen uống cà phê chưa lan đến châu Âu, và việc sử dụng cà phê chủ yếu là cho mục đích y tế chứ không phải để thưởng thức, trước khi có những quán cà phê ở châu lục này. Cà phê đã được giao dịch qua Venice vào đầu những năm 1600, nhưng không có quán cà phê nào được mở ở đó cho đến năm 1645. Quán cà phê đầu tiên ở London được mở vào năm 1652 khởi đầu “mối tình trăm năm“giữa thức uống này và thành phố. Không nghi ngờ gì nữa, cà phê đã khơi nguồn cảm hứng cho văn hóa, nghệ thuật, thương mại, chính trị và để lại một tác động kéo dài lên chính thành phố này.
Ở Pháp, sức ảnh hưởng của trào lưu đã lan tỏa thói quen uống cà phê. Cà phê được tặng cho triều đình của vua Louis XIV, và sự phổ biến ngày càng tăng của nó trong triều đình đã làm lan tỏa thói quen uống cà phê khắp Paris.
Vienna cũng là thành phố đã phát triển một nền văn hóa cà phê phong phú vào cuối thế kỷ 17.
Câu chuyện quán cà phê đầu tiên ở Vienna, quán Blue Bottle, dùng hạt cà phê mà quân Ottoma bỏ lại khi bỏ chạy sau khi vây hãm Vienna thất bại vào năm 1983, nghe thú vị nhưng có vẻ không đúng: một số bằng chứng mới phát hiện gần đây cho thấy quán cà phê đầu tiên ở Vienna được mở vào năm 1865.
Một trong những khoảnh khắc then chốt trong quá trình lan tỏa của thói quen uống cà phê và nền văn hóa cà phê thực ra lại xoay xung quanh trà, Vụ việc Tiệc trà Boston năm 1773, khi những người định cư khai hoang ở Mỹ chống lại sự áp bức của người Anh bằng cách tấn công các tàu buôn ở cảng Boston và ném các hòm trà qua mạn tàu, không chỉ là một hành động cự tuyệt quan trọng đối với đế quốc Anh, mà đồng thời còn đánh dấu khoảnh khắc cà phê trở thành thức uống yêu nước ở Hoa Kỳ. Dân số phát triển nhanh đồng nghĩa với một thị trường phát triển nhanh, khiến Hoa Kỳ ngày càng có nhiều ảnh hưởng trong ngành công nghiệp cà phê trong những năm tiếp theo.
THAY ĐỔI NHỜ CÁCH TÂN
Hoa Kỳ cũng là nơi bắt nguồn những đổi mới quan trọng, để cà phê trở thành một món hàng hợp túi tiền trong mọi gia đình trên khắp thế giới. Vào năm 1900, một công ty tên là Hill Bros bắt đầu đóng cà phê vào trong các hộp hút chân không để kéo dài hạn sử dụng.
Một năm sau, một nhà hóa học người Nhật tên B Satori Kato nhận bằng sáng chế cho phương pháp sản xuất cà phê uống liền, hay cà phê hòa tan. Cho đến gần đây, ông vẫn được coi là người đầu tiên sản xuất loại cà phê này, nhưng những khám phá mới đây ghi nhận phát minh này cho David Strang ở New Zealand vào năm 1890. Phương pháp này đề cao sự tiện dụng hơn là chất lượng, nhưng nó khiến cho việc uống cà phê trở nên dễ dàng hơn với nhiều người. Ngày nay, cà phê hòa tan vẫn cực kỳ phố biển trên khắp thế giới.
Ở châu Âu, các phát minh chủ yếu tập trung nhiều vào cà phê ở quán hơn là ở nhà. Có rất nhiều người tuyên bố mình sáng chế ra chiếc máy espresso đầu tiên, nhưng các đơn cấp bằng sắng chế sử dụng những nguyên lý này bắt đầu được nộp từ năm 1884. Luigi Bezzera đăng ký sáng chế cho chiếc máy của ông vào năm 1901, và ông thường được ghi nhận là người đã phát minh ra máy espresso.
Những chiếc máy này cho phép người phụ trách quán cà phê nhanh chóng pha chế được rất nhiều cốc cà phê với kích cỡ và nồng độ giống như cà phê lọc.
Bước nhảy vọt vĩ đại trong công nghệ espresso là việc sử dụng một lò xo cỡ lớn để tạo ra áp suất cực cao.
Achille Gaggia tuyên bố quyền sở hữu sáng chế này vào năm 1945, mặc dù cách mà ông có được bằng sáng chế này vẫn hơi mờ ám. Cách pha chế bằng áp suất cao này tạo ra thứ espresso mà chúng ta biết ngày nay: một cốc cà phê nhỏ, đậm đặc, bên trên phủ một lớp bọt màu nâu sẫm, gọi là crema.
Sự bùng nổ các quán espresso diễn ra ở rất nhiều thành phố vào những năm 1950, 1960 cũng có giá trị văn hóa nhiều như lượng cà phê được tiêu thụ vậy. Tuy nhiên, từ góc độ kỹ thuật, espresso hoàn hảo cho các quán cà phê vì một chiếc máy bây giờ có thể nhanh chóng pha chế ra nguyên một dòng các loại thức uống.
CÀ PHÊ NGÀY NAY
Không thế viết về thói quen uống cà phê hiện đại mà không bàn về Starbucks. Công ty này khởi nguồn từ việc rang và bán hạt cà phê trong một cửa hàng ở Seattle, nhưng nó đã được Howard Schultz thay đổi hoàn toàn trở thành hiện tượng toàn cầu mà chúng ta biết đến ngày nay. Schultz tuyên bố là được truyền cảm hứng bởi những chuyến đi đến Ý của ông, mặc dù trải nghiệm ở Starbucks là hoàn toàn xa lạ với một người sinh ra ở Ý. Starbucks và các doanh nghiệp tương tự, chắc chắn là đã rải đường cho sự phát triển của cà phê đặc sản mà chúng ta thấy trên khắp thế giới ngày nay, Starbucks làm cho cà phê trở thành một thức uống không-phải-ở-nhà phổ biến hơn nữa, và nâng cao kỳ vọng đối với giá thành của một cốc cà phê. Công ty này vẫn có tầm ảnh hưởng khổng lồ, và đang tiên phong trong việc phát triển thói quen uống cà phê ở các thị trường mới như Trung Quốc.
Thứ định nghĩa cà phê đặc sản hiện đại là sự tập trung vào xuất xứ của cà phê, và tác động của nhân tố này đến hương vị cà phê. Sự tập trung này ảnh hưởng đến cách mà các quán pha chế, bán và phục vụ cà phê, Việc uống cà phê đã tiến triển từ một sự kích thích đơn giản vào buổi sáng trở thành sự thể hiện bản ngã, sự thể hiện giá trị hay sự thể hiện tiêu dùng có ý thức. Hiện nay, cà phê đã len vào vô số các nền văn hóa khắp thế giới.
“Ngày nay, có các quán cà phê phù hợp cho mọi khẩu vị, từ những nhà cung cấp sản phẩm đại trà những thức uống ngọt, nhiều kem có vị cà phê cho đến các quán cà phê thủ công.”